ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
TÒA THÁNH TÂY NINH
Hội Thánh Giữ Bản Quyền
Tái bản năm Canh Tuất 1970
Cáo Bạch
Ít lời lược luận sơ giải mấy bài nầy cốt để giúp ích cho người thiểu học,
vắn nghe cạn thấy, đặng rõ chơn-lý
của Đạo chút ít, khỏi lòng nghi nan dừng chơn nghỉ bước.
Bởi ít học tôi không dùng lời văn-chương đặng, nên
buộc mình phải lấy lời thô-kịch thật-thà, giảng luận ra đây cho hiểu lý Đạo,
tôi cũng do cổ-điển mà luận giải, như chỗ nào có sai lầm xin hoan tâm miễn
chấp, giúp cho được thiện-mỹ.
Chớ Đạo cao sâu, tôi biết tới đâu xin luận tới đó
cho rõ chung về chơn Đạo.
Tác-giả: NGUYỄN VĂN KINH
Làng Bình-Lý-Thôn
GIA-ĐỊNH
LỜI TỰA
Nay là buổi tuần-hườn, Trời khai Đại-Đạo Tam-Kỳ
Phổ-Độ, chấn hưng nền Chánh-Giáo, thức tỉnh chúng sanh, giữ đạo cang thường, tu
tâm sửa tánh, hồi đầu hướng thiện, tự hối ăn năn, cải dữ về lành ra tân-dân
minh-đức, thì chúng ta rõ cuộc tuần-hườn Tạo-Hóa xoay vần, công-bình Thiên-Đạo,
mỗi phương đều phải có một chơn đạo, đặng đời giữ luật-pháp mà noi gương
Chánh-Giáo, dìu-dắt lẫn nhau, kềm chế sửa nhau, lấy nét công-bình mà đối đãi
nhau, từ-hòa nhịn nhục nhau, cho ra hạng người cao thượng, có phải là Đạo khai
cho nhơn-loại trở nên tiến-hóa đó chăng?
Nên mỗi thời kỳ Trời khai Đại-Đạo, hay là các Đấng
Tiên Phật vâng mạng xuống trần lập giáo bất luận phương nào, thì cũng do nơi
Tạo-Hóa chủ trương, lấy cân Thiêng-liêng mà phân định.
Nay chúng ta gặp thời-kỳ nầy cũng bởi cơ tạo
vận-chuyển, đến kỳ Thiên-Đạo hoằng khai, chấn hưng chơn Đạo cứu độ sanh linh,
vậy thì đời phải nghịch hẳn công-lý của Đạo. Bởi Chánh-Giáo thất truyền, nên
nhơn tâm đổi biến, sái phép công-bình, tranh danh đoạt lợi, giết hại lẫn nhau,
thành ra trường náo nhiệt, hư phong bại tục, rối loạn cho đời. Nay đúng kỳ Trời
khai mở Đại-Đạo cho nhơn-sanh thức tỉnh, tu tích hồi thiện, giữ phép công-bình,
khử tà quy chánh, bỏ giả về chơn, cho được thuần-phong mỹ-tục, khỏi chịu những
điều thiệt hại chung.
Thiết tưởng chúng ta vào Đạo lo tu tâm sửa tánh, bỏ
dữ làm lành, ăn chay giữ luật cấm răn của Đạo mà lo thờ Trời kỉnh Phật, lấy nét
công-bình, bỏ những gian tham bài bạc rượu thịt cho ra người cao thượng, như
vậy mới thuận thiên thì có lẽ đặng hưởng phước Trời ban; còn nghịch thiên thì
thế nào tránh khỏi bị hình phạt của Trời đặng?
Lâu nay nơi phương Nam Trời chưa mở Đạo mà chúng ta
đã có thờ kỉnh Tôn-Giáo: Nho, Thích, Đạo mà chưa trọn.
Như Phật-Giáo, từ buổi Đức Thích-Ca Mâu-Ni giáng
sanh Ấn-Độ Tây-Thiên-Trước mà dạy Đạo thì xứ ấy nhờ Phật-Giáo mà truyền bá Đạo
thạnh hưng, con người giữ tam-qui ngũ-giới, minh-tâm kiến-tánh, luyện thành
mâu-ni bửu-châu (xá-lợi tử). Có phải xứ ấy hưởng nhờ ơn Đạo mà trở nên
từ-thiện, đến ngày nay mới có Phật-Giáo mà sùng bái.
Như Đạo Tiên là Đức Thái-Thượng giáng-sanh
Trung-nguyên (xứ Tàu) dạy Đạo Tiên, thủ cảm ứng công-bình, dạy giữ tam-ngươn
ngũ-hành, tu tâm luyện tánh thành ra thữ mễ huyền châu, kết tụ linh-đơn
bửu-pháp, thì xứ ấy cũng hưởng nhờ mối Đạo, trở nên người đạo-đức nên ngày nay
mới có Tiên-Đạo mà sùng bái.
Như Đạo Nho, Khổng-Phu-Tử giáng sanh tại Trung-Huê
(xứ Tàu) dạy đạo tam-cang ngũ-thường, tồn tâm dưỡng tánh, tu luyện cửu khúc
minh châu, tu thành chơn nhứt khí Thái-Cực, vậy nên xứ ấy hưởng nhờ Đạo mà
người đặng rõ biết cang thường luân-lý, khắc kỷ phục lễ, tu tâm sửa tánh, nhu
hòa nho nhã, ngày nay mới có Đạo Nho mà sùng bái.
Như Thánh-Giáo, Gia-Tô Giáo-Chủ (Jésus) giáng sanh
mà dạy Đạo Âu-Châu lập Thánh-Giáo, xứ ấy giữ luật đạo người đặng hiền lành nhơn
đức mà hưởng nhờ Đạo đặng thuần-phong mỹ-tục, đến nay mới có sùng bái
Thánh-Giáo.
Nên các Tôn-Giáo nay đã truyền-bá ra khắp chốn, mà
chúng ta cũng thành kỉnh sùng bái đó vậy, thì Đạo quý báu biết là dường nào.
Nay xứ Nam, Trời khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đặng cứu vớt chúng sanh, cho chúng
ta một nền chơn-đạo như các phương ấy, vậy thì chúng ta nỡ nào lấp tai che mắt
hay sao?
Chúng ta phải biết Đấng Tạo-Hóa rất công minh, dữ
răn lành thưởng, dưới thế nầy sắc da nào cũng con chung Đấng Tạo-Hóa sanh, thì
Tạo-Hóa đặng phần sửa trị sai khiến phân định cả thảy, không mảy nào sai sót.
Tỉ như đời trước, nước nầy sửa trị nước kia, xứ kia lấn hiếp xứ nọ, nước thì bị
tai nạn khổ ách, nước thì chịu man di mọi rợ, nước thì đặng quốc-thới dân an,
người thì khổ hạnh nghèo nàn, kẻ thì giàu sang thong-thả, người bị đui cùi tàn
tật, kẻ thì đặng da thịt trơn liền, cũng do mạng lịnh Trời phân định thưởng
phạt sửa khiến cho nhơn-loại, chớ chẳng phải dưới thế nầy quyền hành ai phân
định đó đặng. Nếu chúng ta biết luật Trời, cơ Tạo-Hóa, thì dưới trái địa-cầu
nầy nhơn-loại toàn phải yêu mến nhau, thương lẫn nhau như con một cha, vậy mới
phải người đồng loại. Bởi kể từ khai thiên lập địa cho đến nay cũng có một Đấng
Cha sanh đó mà thôi. Như một hột giống chưởng gây ra sanh sanh hóa hóa, mỗi xứ
có nhơn-loại thì cũng một Cha sanh, nếu chúng ta chẳng biết luật Trời, cơ mầu-nhiệm
Tạo-Hóa cứ lấy sức người tranh cạnh nghịch lẫn nhau, kẻ giàu hiếp người nghèo,
người mạnh hiếp người yếu cho là chẳng có Trời phân định, thì tôi xin trả lời:
Vậy chớ ai cho người giàu sang, có của mà hưởng giàu sang đó? Vậy chớ ai cho
nước kia có thế lực sửa trị nước nọ? Có phải là do Trời phân định mới ra như
thế chăng?
Nếu chúng ta chẳng rõ, không chịu mấy điều của Trời
Đất thưởng phạt đó, mà gượng làm trái lẽ Trời phân định, thì là nghịch hẳn với
Tạo-Hóa. Nếu trái lẽ Tạo-Hóa, thì phạm tội nghịch Thiên, mà bị phạt thêm nữa,
hễ nghịch Thiên thì phải tiêu-diệt, nên sách: "Thuận Thiên giả tồn nghịch
Thiên giả vong".
Nên chúng ta biết Trời sanh, thì Trời phải có quyền
sửa trị, một mảy không sai, vậy nên lo tu tâm sửa tánh ở cho thuận lòng Trời,
giữ phận làm con cho ra hiền, nên sách rằng: "Hoàng Thiên bất phụ thiện
tâm nhơn", nghĩa là: Trời đâu có bỏ lòng người hiền lành hiếu Đạo. Chúng
ta cứ gốc mà vun đắp bồi bổ, thì nhánh lá tự nhiên thạnh mậu, chớ để gốc ung
sùng, mà lo trên nhánh lá, làm sao nó tươi tắn sống đặng! Nếu chúng ta chẳng có
chút nào hiền lành nhơn đức khổ cực với đời thì Trời lấy công-quả gì mà ban
thưởng cho chúng ta đặng an hưởng? Ta muốn giàu sang mà làm việc gian ác, chẳng
khác nào Trời đã phát cho thân-thể nghèo nàn cực khổ, mà chẳng biết ăn-năn, tu
tâm sửa tánh, lại còn làm điều gian ác, đặng Trời phạt thêm nữa thì phải mất
phẩm nhơn-loại còn đâu đứng làm người mà an hưởng ơn Trời ban. Vậy phải sớm
thức tỉnh mà tầm Đạo.
CHƯƠNG THỨ NHỨT
Nguồn cội loài người do nơi đâu mà ra?
Nguồn cội của loài người do tự nơi đâu mà có, thì
người có học cũng biết rằng: Từ khi chưa có Trời Đất, thì chưa có chi trong
Kiền-Khôn thế-giới nầy, duy có một khí Hư-Vô mà thôi. (Khí Hư-Vô là thanh khí
nhẹ không cùng tột, nơi trong không khí). Khi ấy mới sanh ra Thái-Cực là Chúa
của Kiền-Khôn. Thái-Cực biến sanh Lưỡng-Nghi, Lưỡng-Nghi biến sanh Tứ-Tượng,
Tứ-Tượng biến sanh Bát-Quái, đến Vật-Chất (là thứ có hình dạng khối chất). Từ
trong Vật-Chất mà biến sanh lần ra Thảo-Mộc (loại cỏ cây), Thảo-mộc chuyển biến
sanh lần đến Thú-cầm, Thú-cầm chuyển kiếp lần đến Loài người, thì loài người
cũng phải chịu chuyển kiếp lẫn-lộn trong vật-chất, thảo-mộc, thú-cầm ngàn muôn
kiếp mới đến loài người. Loài người biết tu-hành làm âm-chất mà chuộc tội và
luyện tập Tánh-linh thì chuyển lên Thần, Thánh, Tiên, Phật, trở về khí Hư-vô.
Như kiếp tu-hành ít thì linh-hồn tiến lên ít. Còn tu-hành nhiều âm-chất, luyện
bỏ đặng tánh phàm thì thành trong một kiếp... Nếu còn tham dục vọng mê trần,
không lo cho linh-hồn tiến-hóa chuyển lên, thì phải trở lại lẫn-lộn theo
vật-chất nữa, kêu là chuyển kiếp Luân-hồi (xây trở lại). Sự chuyển kiếp
luân-hồi, thay hồn đổi xác, từ vật-chất lên thảo-mộc, thú-cầm đến loài người,
thì tôi lấy sự thấy trước mắt chỉ cho chư Hiền rõ: Như lá chanh hóa thành con
Dọt-Sành, rể Lăng hóa thành Lươn, con Tằm chuyển sanh con Nhộng. Nhộng chuyển
Bướm, con Sâu chuyển sanh Bướm, con sùng trắng hóa thành con Kiến-Dương (le
ver-blanc se transforme en hanneton). Con Chuột hóa thành Dơi, Dơi thành Chim,
Lươn đổi lốt thành Chồn, Cá hóa Long, Sấu hóa Cù. Nên loài người vẫn trong đó
mà tiến-hóa chuyển lần lên. Các loại hóa sanh do sự chuyền kiếp như vậy mà tuần
tự tiến-hóa đến kiếp con người, Người tu-hành tiến lên địa-vị Thần, Thánh,
Tiên, Phật, nên Phật có lời: "Cả thảy chúng-sanh đều có Phật tánh"
còn Nho rằng: "Nhơn nhơn Thiên phú sở Tánh" nghĩa là mỗi người đều có
tánh Trời cho.
Vậy nguồn cội loài người do nơi Vô Thỉ Không-Khí
chuyển kiếp tiến-hóa theo như thế đó.
CHƯƠNG THỨ NHÌ
Đạo là gì?
Đạo là tiên-thiên nhứt khí bổn thể hư-vô.
Đạo vốn không tên, mượn danh kêu là
"Đạo".
Bởi một phần Âm, một phần Dương hiệp lại cũng là
Đạo. Đạo là cơ-quan (cái máy) chủ-tể của sự sanh sanh hóa hóa, nên nhứt nhứt cả
thảy hễ có sanh hóa đặng gọi là Đạo; nếu làm cho nó không sanh hóa đặng là thất
Đạo. Vậy nên Đạo gọi là: "Thiên-Địa giao thới pháp luân thường
chuyển".
Nghĩa là: Trời Đất hiệp hòa, thì cái máy nó xoay
trở chuyển vận mới sanh sanh hóa hóa đặng, Đạo gọi: "Âm Dương phối hiệp
vạn-vật hóa sanh". Nghĩa là: Khí âm khí dương cảm xúc nhau, muôn vật mới
sanh hóa. Có chỗ gọi là: "Thần khí tương giao thấu tổ cơ". Nghĩa là:
Thần với Khí hiệp lại đặng, thì thấu nơi chỗ Đạo. Nếu người học được thông chỗ
tiên-thiên nhứt khí là đắc Đạo.
CHƯƠNG THỨ BA
Tại sao chúng ta phải tu?
Tại cuộc tuần-hườn của chúng ta đã chuyển đến thì
giờ cảm xúc chơn ngươn (Tiên-thiên ngươn Thần) sẵn lòng bác-ái biết tỉnh-ngộ ăn
năn, nhớ lo tu sửa bổn tánh của chúng ta lại cho khỏi bị thiên-điều hình phạt,
luân-hồi chuyển kiếp đọa lạc biển khổ, đặng đem cái tánh linh về hội hiệp nơi
căn xưa bổn cũ của Đấng Sắm Tạo.
Bởi chúng ta đã nhiều kiếp có lành nhơn chi đó, nên
nay miêu sanh (là mộng nhơn) vẫn còn, đến thì giờ Tạo-Hóa chuyển Đạo thì chúng
ta manh động ứng cảm, phát khởi hồi đầu hướng thiện (1), thuận theo lẽ tự nhiên
của Trời. Nên sách rằng: "Thiên nhơn hiệp phát". Nghĩa là: Trời với
Người đồng chuyển hóa sanh phát một lượt. Cũng như loài thảo-mộc đến đúng giờ
của chúng nó phải sanh bông trổ trái, chúng ta tỉ như hột giống chi đó mà chưa
hư ẩm, lại gặp thì tiết Trời mưa xuống thắm ướt đến nhơn mộng giống ấy, thì
phải nứt tược sanh cây nẩy lá. Chúng ta phải tu là tại đúng thì Trời khai Đạo
ra, rưới đầy khắp chốn, vì chúng ta lâu nay chẳng biết tu nên thường làm hung
dữ, như hột giống khô khan nay gặp Đạo lành chơn chánh, xúc cảm lòng nhơn, như
hột giống đã gặp đặng nước đến thì phải nứt tược sanh cây nở lá, tại nơi lý ấy
nên chúng ta phải tu.
(1) Quay đầu đổi tánh dữ đem lại lành.
CHƯƠNG THỨ TƯ
Tu có bổ ích gì cho chúng ta chăng?
Tu hành rất hữu ích cho chúng ta lắm. Nếu tu thì
điều lành xung thấu đến Trời, Trời đặng thêm dương khí thạnh vượng, thì gió mưa
thuận thời. Chúng ta tu điềm lành ứng xuống nơi đất thì khỏi dấy động điều tai
biến, muôn vật đặng phần sanh hóa, chúng ta tu điều lành đến cho chúng ta thì
khỏi điều tranh cạnh nghịch lẫn hiếp đáp giết hại nhau, tránh đặng kiếp sát,
những điều tai biến hãm hại xác hình nhơn-loại đặng an, cộng hưởng thái-bình,
linh-hồn của chúng ta tu đặng siêu-thăng thoát hóa trở về ngôi cũ. Chúng ta tu
thì loài vật khỏi bị điều tế-sát thương-sanh, nếu loài vật khỏi chết thì đặng
phần sanh sanh hóa hóa, đó là bổ ích cho Trời, Đất, Người cùng vật. Có bài thi
của Thần-Nữ cho:
Tu là cội phước vẹn thân sau,
Tu ấy nguồn trong rửa mạch sầu.
Tu giải oan khiên căn nghiệp trước,
Tu trau nền hạnh nguyệt soi làu.
CHƯƠNG THỨ NĂM
Ăn chay bổ ích về phần nào?
Ăn chay nó bổ ích cho Xác-Thân và Linh-Hồn. Nếu
muốn Xác-Thân chay, trước cần phải ăn chay, mà ăn chay thì phải dùng toàn đồ
Rau, Đậu, Hoa, Quả. Những vật thực đó vào tỳ-vị (bao tử) tiêu-hóa chia ra mà
tiếp bổ xác thân và hồn con người, thì xác thân con người vốn là một khối chất
chứa những sanh vật hoa quả rau đậu, nó nuôi nấng trưởng thành. Vật thực ấy nó
cũng là vị thuốc bổ hơn hết, nó có thanh khí (điển-quang trong sạch) tiếp bổ
cho xác thân và linh-hồn. Thiêng-liêng nhờ được linh khí tinh-khiết ấy,
nhẹ-nhàng đặng cao siêu thoát hóa mà thành. Ấy là phần của xác thân.
Còn phần linh-hồn (lòng người chay): Lòng người
chay thì phải giữ luật Đạo tu tâm sửa tánh, tập luyện trừ bỏ đặng lòng tham
dục-vọng, nếu còn tham dục-vọng, thì lòng chưa chay lạt chi cả. Tham dục-vọng
nghĩa là: Vào Đạo mà không sửa đổi tâm tánh ngay thẳng hiền lành, và không làm
điều ích lợi cho người cùng muôn vật, không chứa âm-đức chi cho Trời Đất cậy
nhờ, mà lòng trông mong làm Thần, Thánh, Tiên, Phật. Đó là lòng tham dục-vọng
không chay, hoặc muốn những điều lợi mình, sung-sướng mình, no đủ mình, trọng
mình hơn người, lo điều vừa chí mình, mà làm cho mọi người phải chịu thiệt hại,
và muôn vật không sanh tồn đặng, là lòng tham dục-vọng không chay đó. Lòng chay
kể không xiết, xin nói tóm-tắt: Lòng chay của con người, là lòng tự nhiên như
thuở mới sanh, không có lòng tư-vị tham muốn hơn thua tranh giành lợi hại ai
cả, ấy là lòng chay. Khi người mới sanh bổn tánh vẫn lành, nếu miệng bụng chay
mà lòng không chay, không thế thành đặng, nên cần lòng phải chay trước hết.
Còn xác thân không chay ra thể nào?
Như xác thân không chay, thì phải ăn thịt của
thú-cầm mà nuôi xác thân, vật-thực thú-cầm ấy vào tỳ-vị (bao-tử) phải tiêu-hóa
mà nuôi xác thân, nhiều năm tích khối lại trưởng thành, xác thân ấy phải chất
chứa pha lẫn thịt của thú-cầm vào mà thành ra xác thân người, thì nó không
tinh-khiết nhẹ-nhàng được siêu-thăng. Lại còn những loài thú-cầm nó hay ăn tạp
vật, hoặc nó ăn nhầm vi-trùng độc có bịnh, nếu chúng ta ăn nhầm thịt ấy vào
tỳ-vị, lúc còn mạnh thì nó lướt đặng; đến khi yếu, những vi-trùng độc ấy nó
biến sanh nhiều chứng bịnh khó trị. Vậy bao-tử con người mà chất chứa những vật
thực thú-cầm đó chẳng khác câu phương-ngôn rằng: "Bao tử của con người là
mồ mả của thú-vật". Mà cho là mồ mả thú-cầm thì thành đất nhị-tì hay là
nghĩa-địa của thú vật; nếu chất chứa nhiều vong mạng, thì sở ấy thật là nhiều
âm-hồn thú-vật. Có khi cô-hồn nó xúm nhau lại, xúi giục cho người làm điều tội lỗi,
đặng trả thù oan mạng nó. Tỉ như xe lửa cán mạng người còn có âm-hồn thay,
huống lựa là bao-tử người biết bấy nhiêu sanh mạng chất chứa vào đó, mà không
có cô-hồn thú-vật theo hay sao?
Nếu biết dùng đặng đồ chay, thì bao-tử ấy chất chứa
toàn đồ hoa quả rau đậu, thì bao-tử ấy tỉ như sở đất trồng cây trái hoa quả rau
đậu đó thôi.
Nên tu hành cũng phải mượn xác thân cho tinh-khiết
thì linh-hồn mới trong sạch đặng, dùng đồ chay nghĩa là cổi lần lốt thú-cầm
trong xác thân con người ra, cho khỏi lẫn-lộn với thú-cầm nữa, mới thành hình
Thần, Thánh, Tiên, Phật đặng. Ấy vậy xác thân phải chay mới toàn vẹn. Tôi xin
tỏ ý chữ nhục肉 là thịt, có câu thích nghĩa chữ nhục như vầy:
Nhục trung lý nội lưỡng cá
nhơn, 人
Nội diện chiếu kiến ngoại
diện nhơn; 人
Chúng sanh hườn thực chúng
sanh nhục,
Tử tế tư lương nhơn ngật
nhơn.
Nghĩa xuôi:
Trong chữ nhục có hai chữ
nhơn người,
Người trong đội thấy người
ngoài,
Chúng sanh trở lại ăn lầm
thịt nhau,
Lo lường tính toán người
ăn thịt người!
Mà không hay! Bởi người
cũng phải chịu chuyển luân trong vật-chất mới lần đến loài người thì một gốc mà
ra.
CHƯƠNG THỨ SÁU
Tại sao có Tam-Kỳ Phổ-Độ?
Tại nhơn-sanh do nơi
"Bổn Nguyên Nhứt Điểm Vô-Cực" (Tạo-hóa) phân chia Chơn-thần sanh sanh
hóa hóa, lạc hạ nơi thế, vẫn xuống càng ngày càng tăng số, lại bị nhiễm lây hậu
thiên trược địa, giao cảm ác khí làm cho tánh xưa đổi biến, mất chất
thiên-nhiên lu mờ điểm tánh linh của Tạo-hóa ban cho mỗi người. Lại còn lưu-luyến
hồng trần, làm các điều hung ác, hại tổn cho đời hắc khí xung thiên, chơn dương
thất chánh, nên Tạo-hóa lập định Tam-Ngươn Long-Huê Kỳ-Hội. Tam-Ngươn là: Thượng,
trung, hạ; ba ngươn. Kỳ là: Nhứt kỳ, nhị kỳ, tam kỳ. Hội là: Hội-hiệp các
chơn-linh của Tạo-hóa đem về phong thưởng.
Nên lập Đạo mỗi kỳ đặng độ
rỗi sanh chúng tu tâm sửa tánh, bỏ dữ về lành, luyện âm hóa dương, ngưng tụ
Chơn-Thần, trở về nguyên bổn. Đạo gọi là: chiết khảm điền ly, lấy dương lấp âm,
cho ra thành càn, Nho-gia rằng: "Quân tử chung nhựt càn càn".(1)
Nữ-Oa gọi luyện thạch bổ
thanh thiên, luyện đá vá trời. Đạo là âm-dương chuyển biến, xây đổi. Nên phần
âm là phần mất lẽ công chánh, sanh kế giết hại lẫn nhau, gian tham xảo trá, hư
phong bại tục, đó là ngũ trược ác thế, đã cuối cùng, đến kỳ vận chuyển lại phần
dương, nhơn hiền từ thiện, thật thà, chơn chất, thuần-phong mỹ-tục. Đạo gọi là
Âm tận Dương sanh (hết lúc tối đến lúc sáng), theo lẽ Thiên Địa tuần-hườn châu
nhi phục thỉ. Bỡi do cơ vận chuyển Tam-kỳ, mở Đạo lần ba, bày bố những tinh-thần
đạo-đức ra mà cứu vớt chúng-sanh, độ rỗi nguyên-nhơn trở về ngôi cũ, vậy mới có
Tam-kỳ Phổ-độ.
(1) Quân-tử nghĩa là người
chí-nhơn tột lành. Chung nhựt càn càn là trọn ngày không cho xen lòng nhơn dục,
và âm khí lấn vào điểm linh tánh, thì phần dương không hao khuyết; mới ra quẻ
"càn tam liên". Càn là Trời vậy.
CHƯƠNG THỨ BẢY
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ
nghĩa là gì?
Đại-Đạo nghĩa là: Đạo cả
cao siêu. Trời mở rộng ra toàn khắp thế-giới. Tam-Kỳ nghĩa là: lần nầy là lần
thứ ba. Phổ-Độ là phô trương bày bố ra, độ là độ rỗi cứu vớt sanh chúng, nơi chốn
u-ám chìm đắm sa đọa luân-hồi.
CHƯƠNG THỨ TÁM
Vào Đạo có đặng phần lợi
ích cho chúng ta những điều gì chăng?
Chúng ta vào Đạo, đặng nhiều
điều ảnh-hưởng trở nên khác lạ hơn lúc chưa có Đạo, khác lạ là bỏ bớt đặng những
điều rượu ngon thịt béo, gái non sắc đẹp, bạc bài, xa xí, khí nộ xúc phạm, cùng
vạy tà gian-tham xảo trá, lận lường hiếp đáp, giết hại nhau, đó là ảnh-hưởng lợi
ích cho chúng ta hiển nhiên trước mắt.
Đạo là luật-lệ công-bình
thiêng-liêng của Tạo-hóa để truyền bá cho đời. Người có Đạo chẳng khác nào thợ
khéo, làm việc chi đã có sợi mực giăng, có thước độ, thì khi dụng mới nên đồ. Nếu
người không có Đạo, chẳng khác chi làm thợ không mực thước, tới khi dụng đâu
nên đồ đặng! Song người giữ Đạo đặng noi theo luật pháp qui điều mà sửa răn cái
tâm tánh cho trở nên từ thiện, bỏ những điều ác, vạy tà, gian-tham, xảo trá, rượu
thịt bài bạc, tránh điều cạnh tranh hiếp đáp, giết hại lẫn nhau nữa. Như vậy mới
đặng hạng người cao thượng siêu thoát luân-hồi, khỏi đầu sanh chuyển kiếp, vay
vay trả trả, mà lại đặng chứng ngôi Hiền, Thánh, Tiên, Phật, về cựu vị, hạp lý
thiên nhiên của Tạo-hóa. Ấy là lợi ích về phần giữ Đạo đó. Chúng ta vào Đạo chủ
nghĩa là học răn lòng sửa tánh, tu tích hồi thiện, cho khỏi sái luật công-bình
thiêng-liêng của Tạo-hóa. Vậy ngước lên không hổ cùng Trời, cuối xuống không thẹn
cùng Đất. Nên sách rằng: "Thường bã nhứt tâm hành chánh đạo, tự nhiên
Thiên Địa bất tương khuy". Nghĩa là: hằng giữ một lòng tu thân hành đạo
chánh, thì tự nhiên không điều chi mích phạm đến Trời Đất. Nếu chúng ta chẳng
vào Đạo, đâu biết giữ luật Đạo, thì phải lo đua danh cướp lợi, đắm những rượu
thịt, bạc bài, lấy điều bất công-bình mà hiếp đáp nhau, sanh lòng bạo ngược,
hung ác, gian tham xảo trá, lập kế giết hại lẫn nhau, đâu biết luật Trời mà làm
lành lánh dữ. Nếu chúng ta như vậy là ra hạng người thấp hèn mà bị trong vòng
sanh nghề tử nghiệp.
Nay đã gặp đến buổi tuần-huờn
Trời xây mối Đạo, khai hóa gieo truyền tại phương Nam, chúng ta vào Đạo học tu
thân chẳng khác chi chúng ta vào trường giáo-huấn mà học sửa tâm phàm tánh tục
bỏ dữ về lành, đặng ra hạng người nhơn từ hiền đức, dẫu ta không thành Hiền,
Thánh, Tiên, Phật đi nữa, thì cũng đặng ra phẩm người hiền đức, xa lánh đặng những
rượu thịt bài bạc, tranh giành cấu xé nhau; tránh điều tội lỗi, khỏi bị sa đọa
luân-hồi chuyển kiếp, không phạm đến luật Trời hình phạt, thì cũng đặng phần
hơn khi chưa có vào Đạo. Tỉ như người dốt mới đến trường học tập, chúng ta vì
không Đạo mới vào Đạo đặng học tập sửa tánh tu thân. Chúng ta đã nhập trường học
rồi, thì dẫu thi không đậu cấp bằng tốt-nghiệp đi nữa, cũng có lẽ biết chữ hơn
khi chưa vào trường học đó chớ, lẽ nào dốt thêm hơn khi có học đó sao?
Chúng ta vào Đạo tu thân,
sự tấn-hóa lợi ích chẳng khác nào như người đi học tập vậy. Trời khai Đạo,
chúng ta vào tu đây, ấy là Trời lập trường thi công-quả đức-hạnh mà làm Tiên,
Phật, Thánh, Hiền; nếu ai biết thức tánh, giữ y luật Đạo, lập công bồi đức cho
đầy-đủ, đặng mà chứng quả vị Thánh, Hiền, Tiên, Phật, ấy là điều đại lợi ích
chúng ta đó, nên sách rằng "Tu kỷ dĩ an bá tánh" nghĩa là: chúng ta
tu mà trong bá tánh thảy đều yên tịnh hết. Ấy là cũng do Đạo. Lại có câu:
"Quốc hữu đạo tắc hưng, quốc vô đạo tắc suy". Nghĩa là: nước nhà có đạo-đức
hiền lành thì dân trở nên thạnh hóa, đặng thuần phong mỹ-tục; còn nước nhà mà
không đạo-đức hiền lành thì lo tranh cạnh nhau đoạt quyền cướp lợi, giết lẫn
nhau, thì tồi phong bại tục mà phải nguy. Vậy nên vào Đạo lợi ích có phần hơn
cho chúng ta dường ấy.
CHƯƠNG THỨ CHÍN
Người đi tu hành phải bỏ
nhà cùng vợ con tầm chỗ thanh vắng hoặc núi non mà tu luyện mới thành, phải vậy
chăng?
Chẳng phải vậy đâu! Chúng
ta xuất thế vào Đạo mà tu đặng sửa tâm tánh, cho trở nên người hiền lành nhơn đức,
và làm điều cho lợi nhơn lợi vật, những việc có ích cho đời mới công-quả, phước
đức đủ đầy là Đạo. Nếu chúng ta đi tu mà lánh đời, không làm điều ích chung, kiếm
chỗ thanh vắng mà an ẩn, lo phận sự riêng mình, thì có ích chi cho Trời Đất
cùng người vật nơi thế cậy nhờ, thì công-quả đức-hạnh đâu mà trông mong thành đặng.
Tỷ như chúng ta muốn làm giàu, thì phải kiếm phương chước chi, làm cho sanh lợi
ra của mới giàu đặng. Nếu muốn giàu có mà không chịu khổ cực, thì tiền của đâu
nó đến cho mà giàu đặng!
Còn chúng ta muốn thành
Tiên, Phật, Thánh, Hiền, hay là hưởng phước thì phải chịu khổ cực với đời, lo cứu
độ nhơn sanh, và tu cho lợi ích Trời, Đất cùng người vật, thì nhờ công quả ấy,
mới thăng thưởng cho chúng ta thành chánh-quả đặng. Vậy nên chúng ta phải ở thế,
mà chịu những điều lao tâm tiêu-tứ gay-go khổ não, cực nhọc khốn đốn: cũng nhờ
các điều nơi thế-gian nầy mà trau giồi, tập luyện cái tâm sắt đá của chúng ta,
nếu chịu nổi các điều ấy thì trở nên thành quả vị Tiên Phật. Chúng ta tu đây chẳng
khác khúc gỗ kia phải để chịu cho đời cưa cắt, đục đẻo, bào chọt chạm trỗ, cho
ra hình tượng. Nếu chúng ta tu mà chẳng chịu những điều thế-gian đục đẻo bào chọt
cùng các sự khổ, thì như khúc gỗ không chịu cho ai đục đẻo, đá động đến thì đâu
có ra dáng hình chi mà nên đặng. Sách gọi rằng: Phũ trát chi công dĩ thành kim
thân. Nghĩa là rìu búa đục đẻo, chạm trổ mới ra hình dáng, thì công-đức chúng
ta lập nên là đó. Các đấng Phật xưa còn phải chịu trải qua tám mươi mốt nạn mới
thành. Nếu chúng ta có Đạo mà không có đức thì làm sao thành? Có câu: Nhược bất
tích âm-công, chưởng âm-chất động khởi quần ma tác chướng duyên, nghĩa là: chẳng
lập công-quả, chẳng chứa âm-chất, thì ma-chướng dấy động ngăn cản khó thể mà
thành Đạo. Vậy chúng ta tu trước phải ở thế lập công-đức tập rèn tu-luyện cho
ra hạnh đạo, mà thành Tiên, Phật, Thánh, Hiền mới xứng, nên có câu: "Hổn tục
hòa hoan nhơn bất thức, hành vân lưu thủy độ nguyên nhơn", nghĩa là
"lộn lạo nơi trần thế không ai rõ biết, lặn suối trèo non, tìm kiếm người
mê mà độ dẫn", là trường lập công-đức vậy, chẳng luận lên núi mà tu. Sách
có câu: "Nhơn nhơn hữu cá linh-sơn tháp, bất tại linh-sơn chỉ tại
tâm". Nghĩa là: "Người nào cũng có núi linh-sơn trong tâm, chẳng phải
lên núi mà gọi là linh-sơn, linh-sơn chỉ tại nơi lòng chúng ta". Nếu lên
núi hay là vào chùa mà không y luật Đạo, tâm-tánh không hiền lành, đạo-đức chẳng
có, làm sao thành hay là siêu-thoát đặng, nên phải chịu khổ với đời cho âm-chất
đầy-đủ, sau sẽ kiếm nơi danh sơn phước-địa mà tu bực đốn giáo pháp-môn, tối thượng
nhứt thừa, vô-vi bí-pháp, như các đấng Tiên, Phật, Thánh, Hiền trước mới đặng:
chớ đừng nghe Tiên Phật lên núi tu thành Đạo, mà nay chúng ta mới vào Đạo, chưa
hiểu tâm-pháp là gì, công-quả không có mà bắt chước lên núi hay là chỗ tịnh ngồi
luyện thì phải bị tà khí nhập khiếu trung gạt-gẫm về nẻo lợi danh mà trở lại thế
nữa. Nên vào Đạo phải cho thông hiểu sơ-giai tu làm sao, trung-giai, chánh-giai
tu thể nào; chớ đừng gọi mới vào trường giai lo đi thi cử-nhơn, tấn-sĩ. Vậy
chúng ta đừng lấy tâm phàm ham muốn thái-quá thì sái luật Đạo, lại uổng công nhọc
sức. Nếu ai không tin lời tôi luận đây, thì lấy ý riêng của mình làm thử coi,
có nguy hiểm không? Vậy người mới vào Đạo chẳng nên kiếm chỗ thanh vắng sớm mà
luyện Đạo là sái lý Đạo.
CHƯƠNG THỨ MƯỜI
Chúng ta đứng làm con người
đây thì lo điều nào là căn bổn?
Chúng ta làm người đứng
trong Trời Đất nầy, cần nhứt phải lo cho có đạo-đức là căn-bổn. Bởi Đạo là máy
sanh sanh hóa hóa cả thảy Trời Đất, Người vật. Trời Đất có Đạo mới cao minh lâu
dài đặng, nên gọi là: "Thiên đắc dĩ thanh (1), Địa đắc nhứt dĩ ninh
(2)". Người có Đạo thì khỏi sa đọa lẫn lộn vào trong trái đất, khuynh tán
điêu tàn, lại đặng siêu thăng thoát hóa, gọi là: "Nhơn đắc đức thành
Thánh". Sách rằng: "Hữu đạo tất hữu đức, hữu đức tất hữu thổ, hữu thổ
tất hữu tài, hữu tài tất hữu dụng".
Nghĩa là: "Có đạo mới
có đức, có đức mới có đất, có đất mới có của, có của mới có dùng". Nên đạo
là cơ-quan chủ-tể của sự sanh hóa, còn không đạo thì phải điêu tàn tiêu diệt. Nếu
người mà không biết cơ-quan Đạo thì phải xung khắc nhau, giành giựt giết lẫn
nhau mà tiêu tị. Bất luận là đời nào, không có Đạo thì phải suy vi tồi tệ,
chúng ta đã biết dư, đời vô Đạo thì phải dân tán quốc khuynh, đời có Đạo thì
dân an quốc thới, người mà có Đạo cả thảy nhơn-loại đặng hưởng cộng-hòa. Hễ
nhơn-loại đặng cộng-hòa thì chẳng hạnh-phúc nào hơn, nên sách cho rằng:
"Thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhơn hòa", nghĩa là: Thời
trời chẳng bằng đất lợi, đất lợi chẳng bằng người hòa.
Vậy Đạo là căn bổn cơ-quan
của Tạo-hóa, nếu chúng ta lo cho nó có Đạo thì ta lo bồi đắp nguồn cội căn-bản
lớn hơn hết đó. Như đời lấy cái thế lực (là sức người) và trí khôn ngoan ra mà
không có Đạo thì thế lực trở lại hiếp đáp giết hại lẫn nhau, thành ra trường
náo-nhiệt mà phải ra đời kiếp-sát loạn-ly, nên Đạo là căn-bản chính của chúng
ta. Phải lo cho có Đạo là điều cần nhứt, nên cổ-nhơn có câu: "Đản quan
Tam-giáo, duy Đạo độc tôn". Nghĩa là: "Xem coi trong Tam-giáo thì Đạo
là trên hết".
Chúng ta lo cho có Đạo là
điều căn-bản vậy.
(1) Thanh là khinh thinh,
(2) Ninh là ninh tịnh lâu dài, siêu thoát.
CHƯƠNG THỨ MƯỜI MỘT
Vào Đạo mà thờ Thiên-Nhãn
chủ ý về đâu?
Vào Đạo mà thờ Thiên-Nhãn
chủ ý về thờ Thần. Thần thuộc Hỏa, Hỏa là mặt nhựt thuộc Dương, Dương là thanh
khí, thì thanh khí là Trời, nên chúng ta thờ một vừng ánh sáng thanh khí ấy là
thờ Trời đó vậy. Bởi chữ thanh 青 một bên, chữ khí 氣 một bên, là Thanh Thiên tức
là Trời vậy. Thờ Thiên-Nhãn chẳng phải thờ Trời đó sao? Nếu giải thân người,
con mắt chủ tâm, tâm là linh-quang chơn chánh, mà người biết gìn-giữ cái tâm,
cũng nhờ kỉnh Trời. Nho gọi là: "Tồn tâm khả dĩ sự thiên". Nghĩa là:
"Gìn-giữ bổn tâm đừng cho nhiễm loạn" gọi là thờ Trời. Đạo Gia-Tô chỉ
nơi trái tim, cũng chủ nghĩa thờ Đức Chúa Trời nơi trái tim. Tục gọi là tâm tức
Phật.
Bởi Thiên-Nhãn là Thần-quang,
chủ-tể nơi Tâm của mọi người nên chúng ta thờ Thiên-Nhãn là chủ nghĩa thờ Trời
vậy.
Có câu Thượng-Đế dạy vẽ
Thánh-Nhãn mà thờ như vầy: "Nhãn thị chủ tâm, lưỡng quang chủ tể, quang thị
thần, thần thị thiên, thiên giả ngã dã".
Ấy Thiên-Nhãn là Thần, Thần
thiêng-liêng của Tạo-hóa.
Khi trước, Đức Ngũ-Tổ hỏi
Lục-Tổ Huệ-Năng: "Trời ở đâu?". Năng trả lời: "Trời ở nơi tâm
ta". Thì biết rõ Thiên-Nhãn là bổn tâm chơn tánh, chủ trương xác thịt nầy,
mà lâu nay chúng ta vùi lấp chẳng biết tu dưỡng lại, cho nên hôn mê tán loạn,
đâu biết Trời mà thờ kỉnh.
Nay đến buổi tuần-huờn, Trời
mở Đại-Đạo, chúng ta mới biết Trời mà thờ kỉnh đó là thủ Chơn-linh, Ngươn-thần,
căn-bản của ta vậy. Nên chúng ta thờ Thiên-Nhãn, chủ ý là kỉnh Trời, một vừng
Thần-quang ánh sáng đó là chủ-tể sanh hóa các Chơn-linh của chúng ta vậy.
CHƯƠNG THỨ MƯỜI HAI
Sao gọi là ba Trấn?
Ba Trấn, nghĩa là cũng
Tam-Giáo. Như khi Nhứt-kỳ, Nhị-kỳ các Đấng ấy giáng trần dạy Đạo, kêu là
Tam-Giáo. Nay Trời lấy huyền-diệu lập Đạo, mà chấn hưng Tam-Giáo lại phải có ba
vị, thay thế cho Đức Phật, Tiên, Thánh, nên kêu là Tam-Trấn. Trấn là trấn nhậm.
Theo ý ngu tôi tưởng đó là Thượng-Đế chọn lựa công-quả chơn-thần thiêng-liêng của
ba vị đương lúc ở thế. Như Thái-Bạch Kim-Tinh, công-bình minh chánh; Quan-Âm Bồ-Tát
tiết hạnh trinh-liệt, Quan-Thánh Đế-Quân trung cang nghĩa khí, đặng phần
trách-nhậm thế quyền cho đủ số Tam-Giáo. Lúc Tam-Kỳ Phổ-Độ nầy là kỳ dùng huyền-diệu
thiêng-liêng mà lập Đạo nên phải dùng chơn-thần vô-vi theo kỳ hội thứ ba, mà thế
quyền Tam-Giáo, nên lập ba Trấn. Thái-Bạch Kim-Tinh thường thủ Tiên-cơ chỉ rõ cảm
ứng rộng truyền chơn đạo, hoằng khai chánh-giáo.
Quan-Âm Bồ-Tát chỉ rõ hạnh
tiết trinh-liệt, đại chí từ-bi cứu độ tín-nữ.
Quan-Thánh Đế-Quân chỉ rõ
trung-cang nghĩa khí, gìn lòng đạo thứ, hằng đọc Xuân-Thu, dẫn độ thiện-nam.
Ấy là ba Trấn.
Thượng-Đế chọn công-quả và
có gương chánh kỷ, nên thế quyền cho ba vị Giáo-chủ: Phật, Thánh, Tiên, mà dẫn-độ
cho chúng ta noi gương ấy, kêu là ba Trấn.
CHƯƠNG THỨ MƯỜI BA
Sao gọi Tam-Giáo?
Đạo là nhứt khí sanh nhị
nghi, là số tam của Đạo, kêu là tam dương khai thới, Thiên Địa định vị, mới có
phân tam tài là: Thiên, Địa, Nhơn; cũng là số tam. Nên Trời có số tam là: Nhựt,
Nguyệt, Tinh; Đất có số tam là: Thủy, Hoả, Phong; Người có số tam là: Tinh,
Khí, Thần; thì Đạo truyền cho đời, cũng phải có số tam đó mà dẫn truyền thế đạo.
Ba ngôi Giáo-Chủ là Phật, Thánh, Tiên, cũng một cội mà sanh ba, nên khai Thiên
bất ly tam cực, thâu viên bất ly Tam-Giáo: nhứt vi tam, tam vi nhứt. Bởi lý ấy
gọi Tam-Giáo.
CHƯƠNG THỨ MƯỜI BỐN
Các vì Giáo-chủ là ai?

CHƯƠNG THỨ MƯỜI LĂM
Các vì Tiên, Phật, Thánh xuống trần hành đạo, lập
giáo nơi nào?

CHƯƠNG THỨ MƯỜI SÁU
Khai đạo tại sao, bế đạo tại sao?
Đạo vẫn có một phần dương, một phần âm, hiệp thành
kiền khôn thế-giới, thì âm-dương chuyển vận tuần-huờn mà sanh sanh hóa hóa mới
có đêm tối ngày sáng. Khi Đạo khai là phần âm cuối cùng vừa tận, thì đến phần
dương
phát khởi chuyển hóa. Ấy là thời-kỳ phổ khai
nhơn-loại đặng từ thiện minh chánh, hung ác vạy tà điêu tàn tiêu tị: lúc ấy
dương thạnh âm suy, nhơn vật tuần-huờn, đến kỳ thoát hóa, tu tâm dưỡng tánh,
cộng hưởng thới bình. Tại nơi cuối cùng, hết lúc Đạo suy, đến lúc Đạo thạnh, do
máy âm-dương chuyển vận, phần âm cuối cùng thì Đạo khai, còn Đạo bế là tại phần
dương cuối cùng muốn dứt chuyển biến ra âm. Hết thạnh đến suy, nhơn vật thay
đổi, đến kỳ Đạo bế; hung ác bạo ngược gian tham xảo trá giao cảm ác khí gây nên
tội lỗi chìm đắm sa đọa, nhơn vật điêu tàn, phần dương tiêu tị, phần âm thạnh
phát. Ấy là tại lúc âm thạnh dương suy, nên Đạo phải bế vậy.
CHƯƠNG THỨ MƯỜI BẢY
Tại về đâu mà chúng ta được biết Đại-Đạo Tam-Kỳ
Phổ-Độ khai ra?
Chúng ta cũng có chỗ biết chút ít như vầy: - Là vì
(1) chánh-giáo thất kỳ truyền đã lâu, đời chưa có Đạo nên người mới không giữ
cang thường luân-lý bỏ phép công-bình, lo tranh cạnh hiếp đáp lẫn nhau, làm cho
phong dời tục đổi, thì chúng ta nghĩ sau đây sẽ có một chơn Đạo nào chấn-hưng
mà dạy thế sửa đời cho ra thuần-phong mỹ-tục, mới theo lẽ tuần-huờn. Tỉ như một
năm có bốn mùa, xuân, hạ, thu, đông, mà chúng ta vẫn gặp lúc thu đông đã lâu
rồi, thì sẽ có mùa xuân nữa, như chúng ta ở lúc ban đêm thì cũng sẽ có vận
chuyển đến lúc ban ngày, lẽ nào ban đêm hoài mà không ban ngày? Hết tối thì
sáng, không lẽ tối hoài.
Vậy nên Sám-Truyền có lưu ký rằng: "Mạt hậu,
tam kỳ Thiên khai Huỳnh-đạo", nghĩa là: Sau đây sẽ có Trời mở Đại-Đạo nơi
kỳ thứ ba, kêu là Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
Và sử rằng: "Lục vạn dư niên, Thiên khai
Huỳnh-đạo" nghĩa là, đủ sáu muôn năm lẻ, Trời sẽ mở Đại-Đạo lại cùng khắp
năm châu, như khi trước vậy, và cũng nhờ có huyền-diệu cơ-bút thông công cùng
Thiêng-liêng mà chúng ta đặng rõ biết Tam-Kỳ Phổ-Độ.
Chú thích:
(1) Trong nguyên bản chánh không có chữ vì.
CHƯƠNG THỨ MƯỜI TÁM
Lập Thiên-Bàn để thờ ai?
Lập Thiên-Bàn để thờ Đấng Chí-Tôn là Tạo-Hóa. Đấng
ấy sanh hóa chúng ta, lại gầy dựng Kiền-Khôn Thế-Giới, sanh sản muôn vật, cho
chúng ta hưởng nhờ, thì chúng ta để thờ kỉnh Đấng ấy. Còn kế dưới thì thờ
Ngũ-Chi Đại-Đạo. Ngũ-Chi là: Phật-Đạo, Tiên-Đạo, Thánh-Đạo, Thần-Đạo, Nhơn-Đạo.
CHƯƠNG THỨ MƯỜI CHÍN
Thờ ai trên hết?
Thờ ngôi Chí-Tôn, Đấng Tạo-Hóa, thì thờ kính Đấng
ấy trên hết.
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI
Tại sao trên hết?
Tại chúng ta vào Đạo thì phải biết bổn nguyên nơi
đâu gầy dựng Càn-Khôn Thế-Giới cho đến chúng ta, thì chúng ta phải biết gốc
ngọn thủy chung. Cái ân lớn, mà trọng kính thờ phụng Đấng ấy là Trời trên hết.
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI MỐT
Khi cúng Đức Chí-Tôn, dâng Bông, Rượu, Trà chủ ý
gì?
Khi làm lễ Đức Chí-Tôn mà dâng Bông, Rượu, Trà; ba
vật ấy chủ ý rõ ba vật báu là Tinh, Khí, Thần trong thân-thể. Lấy lý Đạo tỏ dấu
kỉnh bề ngoài mà cúng cho có thể dụng: Bông thể Tinh, Rượu thể Khí, Trà thể
Thần. Vậy lấy ba món báu của người mà chỉ dấu kỉnh, vật có hình mà hiến lễ, vậy
nên trong Kinh Ngọc-Hoàng Tâm-Ấn, gọi là tam phẩm thượng dược: Thần dữ Khí,
Tinh là vật quí báu phẩm trên đó. Đạo thơ rằng: "Thiên hữu tam bửu: Nhựt,
Nguyệt, Tinh; Địa hữu tam bửu: Thủy, Hỏa, Phong; Nhơn hữu tam bửu: Tinh, Khí,
Thần". Nghĩa là Trời có ba vật báu là mặt Nhựt, mặt Nguyệt, và Tinh-tú;
Đất có ba vật báu là nước, lửa, gió. Người có ba vật báu là Tinh, Khí, Thần.
Nên chúng ta không có vật chi là quí nữa, chỉ có ba điều ấy quí báu, nên trạng ra
vật có hình là: Bông, Rượu, Trà dùng dâng kính hiến Thượng-Đế. Đó là chủ ý kính
tam-bửu vậy.
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI HAI
Tại sao chúng ta kêu Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế bằng
Thầy?
Bởi Đức Thượng-Đế chính mình xuống lập Đạo, hạ mình
xưng với chúng ta bằng Thầy, đặng dạy chúng ta và truyền bảo chúng ta rằng:
"Phải kêu bằng Thầy", đặng dìu-dắt dạy-dỗ chúng ta. Ấy là xưng Thầy
mà dạy trò cho hiệp đạo, lại cũng là một phương-pháp để làm gương cho chúng ta
nữa. Đã đứng bực Chí-Tôn lại còn hạ mình xuống xưng Thầy với các con là tỏ ý
cái hạnh khiêm-cung của Trời cho ta học lấy. Thế thì chúng ta đây là kẻ
phàm-phu tục-tử còn phải hạ mình khiêm-cung với kẻ dưới ra làm sao mới hiệp
đạo? Vậy chúng ta phải noi theo gương ấy mà dìu-dắt lẫn nhau mới có hạnh
khiêm-cung là hạnh yêu dấu của Đấng Chí-Tôn. Bởi lý ấy nên chúng ta mới dám kêu
Chí-Tôn bằng Thầy.
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI BA
Cúng lạy chủ ý gì?
Cúng lạy là cảm cái ân-đức của Đấng Tạo-Hóa và các
vì tiền giác. Bởi chúng ta không biết lấy chi báo đáp, nếu lấy lòng chúng hiệp
chí thành cung kính nơi tâm thì không thấy rõ ảnh-hưởng hình trạng chi hết, vậy
phải dùng cúng lạy mà tỏ dấu kính bề ngoài cho có hình-dạng khó nhọc cám tạ
ân-đức ấy mới vừa lòng; nên dùng hết tinh-thần bề ngoài cúc cung tận tụy, đặng
ra vẽ kính lễ hiến. Nên có câu: "Lễ Phật dã kỉnh Phật chi đức" nghĩa:
lạy Phật là kính đức của Phật. Bởi vậy, buộc chúng ta phải cúng lạy là chủ ý
nầy vậy.
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI BỐN
Cách lạy thể nào?
Lạy chấp hai tay ấn Tý tả thuộc dương, hữu thuộc
âm. Ấn Tý đó là chỉ: Thiên khai ư Tý, Trời mở nơi đầu hội Tý. Sách gọi: Vô danh
Thiên-Địa chi thỉ, là khi trước chưa có Trời, Đất gọi là "Hư không nhứt
khí". Còn tay mặt thuộc phía âm, ắp ngoài bàn tay trái, là âm dương bào
ắp. Khí âm ở ngoài, khí dương ở trong, âm-dương lưỡng-hiệp kêu Kiền-Khôn Định
Vị. Còn ngón cái tay mặt chỉ ngôi Dần bên tay trái, tay âm chỉ qua tay dương là
dấu tỏ: "Nhơn sanh ư Dần". Dương trung hữu chơn âm, trong bàn tay
dương, có ngón phía âm ẩn trong, nên người bẩm khí âm dương mà sanh, mới có hậu
thiên hình chất.
* Bởi Nhứt-kỳ Phổ-độ sơ Long-Huê Hội, Thái-Thượng
lập Đạo dạy cách lạy hai bàn tay chấp nắm co lại, như cái bông búp.
* Qua Nhị-kỳ Phổ-độ nhị Long-Huê Hội, Thích-Ca lập
Đạo dạy cách lạy hai bàn tay sè ra nhập sát lại một, như bông nở.
* Nay đến Tam-kỳ Long-Huê Hội, Đức Chí-Tôn lập Đạo
dạy cách lạy chấp tay ấn Tý, kiết quả lại như trái cây có hột, kêu là kiết quả
thâu viên, độ tận chúng sanh trở về cựu vị (ngôi cũ) là Hạ-ngươn thâu viên kiết
quả, Tam-Kỳ Phổ-Độ, Tam-giáo qui nguyên phục nhứt.
Trước khi vào lạy đứng ngay thẳng rồi xá ba xá, chỉ
tỏ dấu thành kỉnh, tam dương khai thới, Đạo lập lần thứ ba cho hiệp chơn-lý.
Khi chấp tay đưa lên trán chỉ dấu kỉnh Thiên, xá xuống chí gối chỉ dấu kỉnh
Địa, đem về để ngay ngực, chỉ dấu kỉnh Nhơn, cũng đều gom lại Tâm mà thành kỉnh
Đức Chí-Tôn (1). Nên lạy cũng cho phù hợp theo ngươn hội mới nhằm Đạo, nên cách
lạy phải như thế vậy.
(1) Khi quì lấy dấu niệm: Phật, Pháp, Tăng; Phật là
Thần, Pháp là Khí, Tăng là Tinh: dấu niệm Thần là Trời, niệm khí là Đất, niệm
Tinh là Người, nên bên Thánh-Giáo lấy dấu: Nhơn danh Cha và Con, và Thánh Thần,
cũng là ba Ngôi ấy.
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI LĂM
Cúng lạy nhiều có phước khỏi tội chăng?
Trả lời: "Chẳng phải cúng lạy nhiều mà có
phước khỏi tội đặng". Có phước khỏi tội là tại lòng người biết tu hành
ngay thẳng hiền lành nhơn đức, thương người mến vật, bỏ các điều dữ y theo luật
Đạo, làm những điều lợi ích chung Trời Đất cùng người vật, thì là phương có
phước khỏi tội đặng; chớ chẳng phải cúng lạy nhiều mà có phước khỏi tội đặng!
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI SÁU
Có nên bỏ việc cúng lạy chăng?
Chẳng nên bỏ, vì Trời, Phật, Tiên, Thánh, Thần và
tiên-linh cũng là căn nguyên nguồn cội trong một điểm chuyển biến sanh hóa đến
chúng ta. Nay chúng ta đặng hình chất nầy cũng do gốc đó mà ra. Các Đấng ấy lại
để những gương lành tốt cho đời, và lưu kinh truyền điển dạy đời đặng
thuần-phong mỹ-tục, biết điều lành mà làm, điều dữ mà tránh, được siêu thăng
thoát hóa, thì chúng ta đáng ngưỡng vọng ân ấy, nên không biết lấy chi tỏ lòng
thù tạ báo đáp, dùng việc cúng lạy bề ngoài cho có dấu kỉnh mà xưng tụng nhắc
nhở công-đức ấy. Đến khi làm lễ đối kỉnh các Đấng ấy thì phải lấy hết lòng, hạ
thân đảo bái, cúc cung tận tụy, cho ra lễ thành kính tỏ dấu bề ngoài, nên không
bỏ sự cúng lạy đặng.
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI BẢY
Phật có phải lớn hơn Trời chăng?
Trả lời: Chẳng phải lớn hơn, Trời là Chúa cả
Kiền-Khôn hóa dục quần sanh, nên bài tặng: "Đại-La Thiên-Đế ... Nải nhựt
nguyệt tinh thần chi quân, vi Thánh, Thần, Tiên, Phật, chi chủ" nghĩa là:
Trời làm chủ mặt nhựt, mặt nguyệt, sao, Chúa cả của các Đấng Tiên, Phật, Thánh,
Thần. Bởi vậy, chư Tiên có giáng bút cho mấy lời như vầy:
Đạo-đức nhà ngươi khá gắng giồi,
Nên hư tại máy cướp cơ Trời.
Trời sanh người, người sanh Tiên, Phật,
Phải nhớ Càn-Khôn chớ khá lơi.
Bởi Trời sanh người, người biết giác ngộ thức tỉnh
tu hành, mới thành Tiên, Phật đặng, nên chữ Phật phải có chữ Nhơn người, một
bên chữ Phất mới là Phật. Có làm người trước rồi, sau tu mới làm Phật, nên
không phải Phật mà lớn hơn Trời đặng. Nhứt nhứt Đạo nào cũng Đấng Tạo-Hóa gầy
dựng ra cả nên Phật chẳng phải lớn hơn.
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI TÁM
Lập nghi Thiên-Bàn để các phẩm vật cúng đó chủ ý
gì?
Các phẩm vật để trên Thiên-Bàn mà cúng đó là chủ ý
lấy lý đạo Tiên-Thiên thể ra cho có hình trạng vật chất Hậu-Thiên mà sùng bái.
* Phẩm vật nơi Thiên-Bàn thường có một ngọn đèn
chong ở giữa, đó là Thái-Cực đăng, nhứt điểm huệ đăng bất diệt, thể trên Trời
là mặt Nhựt, thể dưới đất là Lửa, thể nơi người là Tánh, thể nơi Đạo là
Huyền-Quang nhứt khiếu; chỉ nơi Trời ở giữa gọi sao Thiên-Xu (Bắc-Đẩu), chỉ nơi
đất ở giữa gọi là Tu-Di-Sơn, chỉ nơi người ở giữa gọi Linh-Quang nhứt điểm.
* Bên tả để một chén nước trắng gọi là Thái-Cang
(Tả Thanh-Long). Bên hữu một chén nước có trà gọi là Thái-Nhu (Hữu Bạch-Hổ).
Trong chén nước có tám phân, bên âm có trà, bên dương nước trắng: Âm-dương hiệp
lại thành Đạo. Đạo gọi là: "Nhị bát hiệp thành nhứt cân chi số dã"
(nghĩa là hai cái tám phân hiệp làm một cân 16 lượng). Chỉ đối trên Trời là
âm-dương, chỉ nơi Đất là cang-nhu, nơi người tánh-mạng.
* Khi cúng Bông, Rượu, Trà ba vật ấy thể nơi Trời
là: Nhựt, Nguyệt, Tinh; nơi Đất là: Thủy, Hỏa, Phong; nơi người là: Tinh, Khí,
Thần. Còn lư hương thuộc thổ, tại nơi người là tạng tì, đốt hương cắm năm (1)
đó thể nơi Trời thuộc ngũ khí, thể nơi Đất thuộc ngũ hành, nơi người thuộc ngũ
tạng. Mùi thơm chủ về khí nhẹ nhàng, khử trược lưu thanh, khinh phù xung thấu
Cửu-Trùng-Thiên, đặng tỏ lòng thành kỉnh của chúng ta chủ ý vậy.
(1) Ngũ phần chơn hương là năm phần mùi thơm.
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI CHÍN
Vào Đạo phải minh-thệ chủ ý gì?
Minh thệ chủ ý để cho người vào Đạo buộc phải thệ
đặng thủ-tín, nhớ lời nguyện trước Thiên-Bàn: Trời, Phật, Tiên, Thánh, Thần và
có mặt Đạo-hữu chứng lời thệ nguyện của người vào Đạo đặng người ấy lấy hết một
lòng dạ giữ thờ chánh Đạo mà thôi, sau chẳng dám làm điều gì sái lời nguyện với
bề trên, nên buộc phải giữ lời nguyện với Trời, Phật, Thánh, Thần mới chứng
chiếu, đặng chúng ta răn lòng sửa chí hằng ngày phải nhớ lời nguyện mà kềm thúc
cái tâm phàm tánh tục, của người giữ Đạo cho cuối cùng.
Nên Phật, dĩ nguyện vi bằng, vô nguyện bất năng
thành chánh quả (1). Nên chủ ý thệ nguyện là vậy đó.
(1) Nghĩa là Phật lấy lời thệ nguyện làm bằng
chứng, không lời nguyện đó không dốc tín lập chí cho thành chánh-quả.
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI
Còn câu niệm Nam-mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát
Ma-Ha-Tát là chủ ý gì?
Chủ ý về mỗi khi lập Đạo phải lấy Thánh-danh khác
mà khai Đạo cho có danh-hiệu.
Nhưng trong Thánh-hiệu lại có lý Đạo. Như niệm hai
chữ Nam-Mô, là tâm không tưởng chi cả, để không cho thanh-bạch đặng niệm
Thánh-hiệu Đức Chí-Tôn.
Còn chữ "Cao-Đài" trong Đạo-thơ rằng:
Thượng-Đế viết Cao-Đài, viết Linh-Đài, hai chữ Cao-Đài chỉ phần Nho-Giáo.
Tiên-Ông chỉ về Tiên-Giáo. Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát chỉ về Phật-Giáo. Vậy nên kêu
là Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ Tam-Giáo qui-nguyên.
Nên mỗi kỳ Thượng-Đế lập Đạo hay là Tiên, Phật cũng
đều mượn Thánh-danh khác, như Trời khai Đạo khi trước.
Hoặc xưng: Diêu-Trì
Kim-Mẫu Vô-Cực Thiên-Tôn.
" Hồng-Quân Lão-Tổ Thánh-Mẫu Từ-Tôn.
" Thiên-Địa Lão-gia.
" Huyền-Khung Cao-Thượng-Đế.
" Ngọc-Hoàng Đại-Thiên-Tôn.
Nên lập Đạo mỗi kỳ Thánh-danh đều khác, cho
phù-hiệp ngươn hội của Đạo. Câu niệm chủ ý là vậy.
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI MỐT
Mỗi người vào Đạo phải thuộc kinh và đọc cho ăn
nhịp nhau một cách, chủ ý gì?
Chủ ý Đạo gốc có một mà ra. Nên chúng ta học Đạo
phải thuộc kinh nơi tâm, đặng rõ lời yếu-lý bí-pháp của Đạo, cho biết mà thiệt
hành phận sự, và đọc cho ăn nhịp hiệp nhau làm một, ấy là chỉ rõ Đạo có một gốc
mà ra, nên kêu là "Nhứt sanh vạn-vật, Đạo sanh nhứt"(1). Song khi đọc
kinh dùng lòng thành-tín, tinh-thần của nhiều người, đồng hiệp chung liên-kết
lại, gom về một mà cầu-nguyện, khẩn đảo mới là qui nhứt hiệp Đạo, bởi lý ấy mỗi
người thuộc kinh và đọc cho ăn nhịp nhau mới nhằm lý Đạo.
(1) Nghĩa là: Một điểm Linh sanh muôn vật, thì Đạo
sanh một điểm Linh ấy.
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI HAI
Vào Đạo phải giữ trai giới - Trai là gì, giới là
gì?
Trai 齋 nghĩa chay lạt, đồ trong sạch nhẹ-nhàng tinh-khiết. Giới 戒 là điều cấm răn của Đạo. Trai là chay, nếu ăn chay thì tâm tánh phải hiền
lành lánh điều tội lỗi, giảm tánh hung-hăng, đổi lần họa ra phước, bỏ dữ về
lành
1- là chẳng giết hại loại
bò bay máy cựa,
2- là tránh nợ oan báo,
linh-hồn đặng trong sạch nhẹ-nhàng.
3- lòng nhơn biết thương
người mến vật.
Đó là giữ trai-giới. Nên
có câu rằng: "Phật ái chúng sanh như mẫu ái tử". Nghĩa là: "Phật
thương loài chúng sanh như mẹ thương con vậy". Và có câu rằng "Nhứt tử
trì trai thiên Phật hỉ" nghĩa là: "Một người ăn chay đặng thì ngàn
muôn Phật thảy đều vui lòng mừng đó".
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI BA
Ngũ-giới là gì?
Ngũ 五 là năm, Giới 戒 là răn, năm điều cấm răn.
Đạo Phật ngũ-giới (1)
Thứ nhứt: bất sát sanh, cấm
không giết hại loài sanh linh vật sống;
Thứ nhì: bất du đạo, cấm
gian tham trộm cướp của người.
Thứ ba: bất tà dâm, cấm
không phong tình huê nguyệt.
Thứ tư: bất tửu nhục, cấm
thịt rượu say sưa.
Thứ năm: bất vọng ngữ, cấm
không nói dối trá sai lời.
Chú thích:
(1) Trong bản chánh không
có chữ ngũ giới, chúng tôi mạo muội thêm vào cho tương xứng với đề mục kế tiếp
bên dưới là: Đạo Nho ngũ thường. TT/NSW thành thật kính cáo.
Đạo Nho ngũ-thường
Nhơn: "Bất sát bất hại,
thể háo sanh chi đại-đức", là không giết hại muôn vật, lấy lòng nhơn phóng
xá để chúng nó đặng phần sống, sanh hóa như chúng ta. Vậy mới có lòng bác-ái
thương người mến vật.
Nghĩa: "Nhứt thảo nhứt
mộc, các hữu kỳ chủ bất vấn khẩn ngật, ám thủ phi nghĩa" nghĩa là: Cả thảy
mọi vật đều có chủ, chẳng hỏi mà lấy và sanh lòng gian giảo tham muốn của người
là điều thất nghĩa.
Lễ là: Bớt lòng dục nuôi mạng,
cấm tà dâm khỏi hao tổn ngươn tinh, sát hại chất sanh, làm cho mất lễ.
Trí là: Tồn tâm dưỡng
tánh, không dùng rượu thịt mùi ngon vật lạ, mê tâm loạn tánh, hoại hư tạng phủ,
đổi mất tánh xưa, biến ra ngây dại, mà thất trí.
Tín là: Chỉ ư tín, thủy
chung như nhứt, không sai lời đổi chí giữ điều chắc thật, cho khỏi thất tín.
Ngũ-giới, Ngũ-thường cũng
một lý.
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI BỐN
Giữ tam-qui là nghĩa gì?
Tam nghĩa là ba. Còn chữ
Qui 皈 bạch 白 một bên, chữ phản 反 một bên. Phản bạch, nghĩa
là phải trau-giồi sửa tánh trở lại cho đặng thanh bạch gọi là qui, nên kêu Tam
qui, là ba điều cho thanh bạch tinh-khiết trở lại tánh chơn như Phật tánh.
Ba điều là điều gì?
1- là cho y Phật, 2- là cho y Pháp, 3- là cho y
Tăng.
Y là làm cho giống in khuôn không sai, gọi là Y
依. Y Phật là tu
tâm sửa tánh, tịnh dưỡng nguơn-thần, y lại như thuở mới
sanh (nhơn chi sơ, tánh bổn thiện) gọi là y Phật. Y Pháp là tu điều dưỡng
ngươn-khí (hơi thở) không cho hao tán, phục lại Tiên-thiên, không hô-hấp là
chơn-khí như thuở mới sanh, gọi là y Pháp. Y Tăng là tu bổ nguơn-tinh chẳng cho
hao tán khuy tổn y lại như thuở nhỏ, tinh ba đầy-đủ chưa khuyết điểm vậy là y
Tăng. Nên tam-qui chủ-nghĩa tu luyện Thần-Khí-Tinh, ba điều cho y nguyên lại
thanh-bạch tinh-khiết, gọi là qui-y.
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI LĂM
Tập cơ chấp-bút, quan-hệ của
việc cơ-bút thế nào?
Quan-hệ việc cơ-bút tối trọng.
Vì cơ-bút cốt để dùng thông-công với Thiêng-liêng không hình dạng, mà chúng ta
là người có hình chất phàm-phu nhục-nhãn, đâu thấy biết rõ đặng lẽ nào tà
chánh, phải hay là quấy, vì những điều có hình dạng hiển nhiên đây mà chúng ta
phân biệt chơn giả còn chưa thiệt đặng; huống chi không hình-dạng ánh bóng, tuy
lấy lời chánh tà có lý hay là không có lý, mà biện luận đó thôi. Có khi Tiên Phật
giáng dạy chúng ta điều chánh-đáng có ích, mà chúng ta không muốn làm theo lời ấy.
Có khi tà quái lấy sự thông-minh của chúng nó bày điều có lý hay hơn chúng ta,
và phù hạp ý chúng ta thì chúng ta lại nghe lời chúng nó cám dỗ, sai khiến, bị
mưu lớp hao tài tốn của, lại thêm nhọc sức. Chúng nó làm nhiều điều huyền-diệu
cho mà tin, và có lý tín-ngưỡng mà lại làm tôi tớ nó. Có khi thần tư-tưởng của
người phò cơ, hoặc của người hộ-đàn, cũng có thể tiếp thêm điễn mà ra bày điều
cho chúng ta làm mất ngày giờ mà không biết đặng. Vì điều sai khiến chúng ta đặng
là chơn-thần của chúng nó mạnh hơn, hoặc cái chơn-thần nó ra đặng khỏi xác, nó
thông linh, biết điều vị lai quá khứ, nên nó rõ cao xa, lại do theo ý muốn của
chúng ta mà nó lập theo, ắt phải lầm hại, chừng biết ăn năn thì đã muộn.
Còn người phò cơ chấp-bút
cũng bị cái thần điễn nó nhập vào choán cái chơn-thần của đồng-tử, thì chơn-thần
của người phò cơ chấp-bút, càng ngày càng suy giảm thối vị lần lần. Có khi nó
choán hết chơn-thần, còn lại thức-thần phải điên cuồng lảng-trí là khác nữa. Bởi
có người tập cơ chấp-bút mà điên cuồng là vậy, nên cơ-bút là quan-hệ tối trọng
chẳng nên dùng thường.
CHUNG
GIẢNG ĐẠO YẾU NGÔN Tác giả
NGUYỄN VĂN KINH
Tái bản năm Canh Tuất 1970
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét